Hội chứng giảm đẻ ở gà (EDS) hội chứng này do một loại virus thuộc nhóm Adenovirus subgroup III gây ra. Virus không có mối liên hệ nào về mặt huyết thanh học với các virus thuộc subgroup I và II. Đặc trưng của bệnh là gây hiện tượng giảm đẻ, trứng không có vỏ hoặc vỏ mỏng hơn so với gà bình thường. Cùng MGD đi tìm hiểu bài viết sau để hiểu rõ hơn nhé.
Triệu chứng giảm đẻ ở gà
- Hội chứng giảm đẻ ở gà có thời gian nung bệnh từ 7 đến 9 ngày, một số trường hợp khi gây bệnh thực nghiệm triệu chứng chỉ xuất hiện sau 17 ngày gây bệnh.
- Vỏ trứng bị mất màu, trứng đẻ ra có vỏ mỏng, vỏ mềm hoặc không có vỏ cứng.
- Bề mặt trứng có vỏ mỏng xù xì, nhám, có nhiều hạt lắng động trên bề mặt vỏ.
- Khi gia cầm mắc bệnh ở giai đoạn cuối chu kỳ đẻ trứng; sự thay lông có thể khiến cho tỷ lệ đẻ trứng không bị ảnh hưởng.
- Sản lượng trứng giảm rất nhanh hoặc giảm dần trong một vài tuần.
- Bệnh EDS kéo dài trong 4 đến 10 tuần, sản lượng trứng giảm khoảng 40%, trung bình mất khoảng 10 đến 16 trứng/con.
- Trường hợp bệnh xảy ra do kết quả của sự tái kích hoạt virus; sản lượng trứng giảm khi tỷ lệ đẻ trong đang được khoảng 50% và khi tỷ lệ đẻ đạt cao nhất.
- Kích thước và chất lượng lòng trắng trứng bị ảnh hưởng, rõ nhất khi gà bị nhiễm virus từ lúc 1 ngày tuổi.
- Gia cầm khi bị bệnh vẫn khỏe mạnh, một số đàn có biểu hiện rõ ra bên ngoài như chậm chạp, kém ăn, tiêu chảy trong một thời gian ngắn.
Bệnh tích hội chứng giảm đẻ ở gà
- Bệnh tích biểu hiện chủ yếu ở buồng trứng và ống dẫn trứng, các bệnh tích khác không rõ ràng. Điều này khiến cho việc chọn lựa gia cầm bị bệnh rất khó khăn.
- Ống dẫn trứng bị phù thũng sau, đặc biệt tại miệng phễu ở phần trên của ống dẫn trứng và phần tử cung.
- Lách bị sưng to, tế bào trứng mềm nhũn; quan sát thấy nhiều giai đoạn phát triển của trứng trong xoang bụng.
Chẩn đoán EDS
Hội chứng giảm đẻ ở gà có thể được chẩn đoán dựa vào hiện tượng giảm sản lượng trứng không đạt được như đã dự báo hoặc sản lượng trứng đột nhiên giảm, đặc biệt khi gia cầm đang khỏe mạnh nhưng vỏ trứng bị thay đổi hoặc sức khỏe đàn gia cầm giảm sút cùng với chất lượng vỏ trứng. Tuy nhiên, các triệu chứng lâm sàng của bệnh rất dễ nhầm lẫn với bệnh khác.
Bên cạnh đó khi có biểu hiện triệu chứng, bệnh đã gây ảnh hưởng đến năng suất đàn gà đẻ, ảnh hưởng đến kinh tế người chăn nuôi. Cần tiến hành giám sát mầm bệnh lưu hành trong đàn trước giai đoạn gà đẻ trứng, từ đó có những biện pháp kịp thời điều trị bệnh.
Phòng bệnh hội chứng giảm đẻ ở gà
Virus EDSV có khả năng lây qua trứng nên cần phải áp dụng các biện pháp phòng bệnh như sau:
- Chọn gà giống từ những cơ sở giống chất lượng, không bị nhiễm virus; gà con phải được chọn từ những đàn gà được tiêm phòng cẩn thận.
- Vệ sinh đúng kỹ thuật trong quá trình chăn nuôi, vận chuyển trứng, quá trình tiêm phòng.
- Nuôi vịt, ngỗng cách xa khu nuôi gà.
- Phun sát trùng chuồng trại định kỳ, tiêu diệt mầm bệnh ngoài môi trường.
- Sử dụng vaccine phòng bệnh cho gà 1 lần giai đoạn gà 2 đến 4 tuần trước đẻ.
Chữa trị gà giảm đẻ (EDS)
- Hiện nay chưa có thuốc điều trị bệnh Hội chứng giảm đẻ ở gà.
- Bổ sung thuốc bổ, vitamin, tăng hàm lượng canxi và protein trong khẩu phần cho gà đẻ; gà giống để tăng năng suất đẻ và tăng chất lượng trứng.
Hội chứng giảm đẻ ở gà là một bệnh truyền nhiễm tác động trực tiếp đến sản lượng trứng cung cấp ra thị trường. Bà con cần chủ động phòng ngừa dịch bệnh. Chúc bà con chăn nuôi thành công.
Nguồn: happyvet.vn