Cách chăm sóc ngan để ngăn ngừa bệnh tật

mất:5 phút, 38 giây để đọc.

Dùng thức ăn dạng hạt hoặc dạng cô đặc trộn với gạo cho ngan ăn; hoặc sử dụng các nguyên liệu sau: tấm, ngô, gạo lứt, đậu nành, bột đậu nành, cám gạo, bột cá nhạt, bột mì, bột tôm, VTM premix, khoáng hoặc gạo (hàng nghìn ). Gạo nấu chín; gạo sống (đối với lợn hậu bị, hậu bị, đẻ trứng) trộn với mồi tươi (30 – 40% tùy loại) như tôm, tép, cua, ốc ,,, ngọt. Bánh rán, bọ hung, bọ đỏ. . . Và các loại côn trùng khác. Có thể sử dụng các loại thực phẩm xanh khác.

Chế độ dinh dưỡng dành cho ngan

Bao gồm 2 thời kỳ:

  • Từ1-21 ngày tuổi: Thức ăn đạt 18% đạm tiêu hóa, năng lượng 2890 kcal
  • Từ 22-56 ngày tuổi: Protein tiêu hóa trong thức ăn đạt 16%, năng lượng 2.890 kcal

Hàm lượng protein tiêu hóa trong thức ăn công nghiệp là 15% và năng lượng là 3000 kcal. Không sử dụng bột đậu phộng trong thức ăn cho ngỗng vì dễ nhiễm độc tố aflatoxin, lượng ngô dùng để ấp ngao không quá 20%, lượng ngô nuôi ngao thương phẩm không quá 30%.

Áp dụng chế độ dinh dưỡng cho ngan

Cách cho ăn:

Trước khi cho ngan ăn phải vét máng; loại bỏ cặn bẩn, mùi hôi, thối, mốc, cho ngan ăn nhiều lần trong ngày để tránh rơi vãi và bị hỏng; tách những con ngan nhỏ cho ăn riêng để tạo sự phát triển cân bằng.

Ngan 28 ngày tuổi có trọng lượng bình quân 0,6kg con đực, 0,8kg con cái. Ngan mái 56 ngày tuổi nặng trung bình 1,5kg; còn con trống trung bình 2,3kg.

  • Với con 1-29 ngày tuổi: Dùng hạt hoặc gạo nấu thành cơm, sau đó trộn với thức ăn giàu đạm để làm thực phẩm chính.
  • Nếu là ngan chăn thả thì nên rắc thức ăn đều và rộng để tất cả ngan được ăn một lúc
  • Từ 29-56 tuổi cho ăn 112g / con / ngày. Bắt đầu từ ngày thứ 29, mục tiêu giữ cho con nuôi giống phải phát triển theo biểu đồ; vì sự chênh lệch về trọng lượng sẽ ảnh hưởng rất lớn đến việc sản xuất sau này.
  • Đối với ngan nuôi thương phẩm cho ngan ăn tự do (cả nuôi nhốt và nuôi thả). Đến 63 ngày tuổi (nuôi nhốt) 84 ngày tuổi (nuôi chăn thả) là kết thúc đạt trọng lượng giết thịt.

Chăm sóc ngan theo chu kỳ

Kiểm tra đàn ngan

Trạng thái đàn ngan cho phép ta đánh giá về sức khoẻ của nó :

  • Ngan con phân tán đều khắp chuồng chứng tỏ đàn ngan khoẻ mạnh, thoải mái, nhiệt độ trong chuồng đạt yêu cầu.
  • Ngan con dồn đống là do lạnh, nhiệt độ chuồng nuôi thấp.
  • Ngan con nằm há mỏ, cánh dơ lên là do nhiệt độ chuồng nuôi quá cao
  • Ngan không chơi hoặc nằm ở khu vực nhất định là chắc chắn có gió lùa.
  • Ngan bị bết dính là do chuồng ẩm, chế độ nuôi dưỡng kém.

Kiểm tra sức khoẻ đàn ngan hàng ngày:

Những con ngan ốm yếu cần loại ngay ra khỏi đàn, khi đàn ngan biếng ăn, biếng uống, phân thay đổi phải báo ngay cho thú y. Kết thúc giai đoạn 56 ngày tuổi chọn giống để chuyển lên hậu bị. Để tỷ lệ đực/ mái cho các đàn giống là 1/4.

Sự phát triển của ngan

Phòng chống dịch bệnh

Thứ nhất: Khi mua gia cầm giống về nuôi

  • Chỉ nên mua gia cầm từ những cơ sở giống tốt, có nguồn gốc rõ ràng, và chỉ chọn những gia cầm khỏe mạnh, nhanh nhẹn. Cần phải hỏi rõ để biết giống gia cầm đã được tiêm phòng chưa và tiêm phòng những bệnh gì.
  • Cần lưu ý: nên nhốt riêng gia cầm mới mua về và cho uống thuốc bổ trong vòng 10 ngày đến 15 ngày; khi thấy khỏe mạnh mới thả vào cùng đàn gia cầm nhà.

Thứ hai: Đảm bảo điều kiện chuồng nuôi và môi trường nuôi được vệ sinh

Trước khi nuôi

Cần chuẩn bị tốt chuồng trại trước khi mua gia cầm về.

  • Mật độ nuôi cần vừa phải: nếu nuôi quá đông, gia cầm hay cắn mổ, môi trường quá ô nhiễm dễ phát sinh bệnh tật.
  • Cần chú ý vệ sinh tiêu độc chuồng gia cầm, khu vực xung quanh chuồng, dụng cụ chăn nuôi trước khi đưa gia cầm vào nuôi.

Trong thời gian nuôi

  • Nên giữ cho chuồng nhốt gia cầm luôn khô ráo, sạch sẽ, thoáng mát, không bị mưa tạt gió lùa.
  • Sân thả gia cầm cần khô sạch sẽ, có hàng rào bao quanh.
  • Nếu nuôi gia cầm có chất độn chuồng thì độn chuồng phải luôn khô ráo nên phơi nắng trước khi cho vào chuồng gia cầm.
  • Cần định kỳ quét phân, thay chất độn chuồng, rắc vôi bột vào các nơi ẩm ướt, quét vôi chuồng nuôi, sân thả gia cầm, phun thuốc diệt muỗi, mò, mạt.
  • Phân gia cầm, chất độn chuồng lẫn phân cần được gom và ủ để diệt mầm bệnh.
  • Trong thời gian này cần định kỳ vệ sinh; tiêu độc sát trùng chuồng trại (1 tuần 1 lần), sử dụng các loại hóa chất sát trùng như: cloramin, iodine, benkocid… để sát trùng chuồng, khu vực xung quanh chuồng, dụng cụ chăn nuôi;… để giảm thiểu mầm bệnh.

Sau mỗi đợt nuôi

Cần tổng vệ sinh sát trùng và để trống chuồng 7-15 ngày mới nuôi lứa khác để cắt đứt các loại mầm bệnh.

Thứ ba: Biện pháp cách ly để hạn chế lây lan bệnh

  • Nên hạn chế người ra vào nơi nuôi gia cầm. Nếu có dịch bệnh xảy ra ở địa phương xung quanh thì không cho người ngoài đến. Người nuôi gia cầm không được đến nơi xảy ra dịch.
  • Cần có biện pháp ngăn ngừa không cho gia cầm tiếp xúc với các động vật khác  như chim hoang, heo, chuột….
  • Thường xuyên loại thải những gia cầm gầy yếu ra khỏi đàn để tránh lây lan bệnh.

Thứ tư: Chủng ngừa

Đây là biện pháp chủ động phòng bệnh có hiệu quả nhất.

  • Tiêm phòng vacxin dịch tả vịt đối với vịt, nhỏ mắt vacxin Lasota (bệnh Newcastle) đối với gà lần đầu lúc 7 ngày tuổi, lần 2 lúc 21 ngày tuổi.
  • Tiêm phòng vacxin bệnh cúm gia cầm (H5N1) cho vịt lần đầu lúc 15 ngày tuổi, lần 2 lúc 45 ngày tuổi.
  • Tiêm phòng bệnh tụ huyết trùng cho vịt lúc 60 ngày tuổi.

Chúc mọi người thành công trong quá trình chăm sóc vịt nhé! Mọi người nhớ theo dõi các tin tức về chăm sóc gia cầm trên MGD nha!

Nguồn: trangtraivanan.com

,

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *